Vinayapiṭake | Tạng Luật | The Book of Discipline |
Pārājikapāḷi | Giới Bổn Tỳ Kheo | Rules of Defeat |
Verañjakaṇḍaṃ | Phẩm Verañja | The Verañja Section |
1. Tena samayena buddho bhagavā verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi. Assosi kho verañjo brāhmaṇo – ‘‘samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi. Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā [bhagavāti (syā.), dī. ni. 1.157, abbhuggatākārena pana sameti]. So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti. So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ; kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti; sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’’’ti. | 1. Lúc bấy giờ, Đức Phật, Thế Tôn đang ngự tại Verañjā, dưới gốc cây Nimba Naḷeru cùng với đại chúng Tỳ khưu khoảng năm trăm vị. Bà-la-môn Verañja nghe được rằng: “Này các vị, Sa-môn Gotama, con trai dòng Thích-ca, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đang ngự tại Verañjā, dưới gốc cây Nimba Naḷeru cùng với đại chúng Tỳ khưu khoảng năm trăm vị. Tiếng tốt về Ngài Gotama ấy được lan truyền như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài đã tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người. Ngài thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, toàn hảo ở phần cuối, có ý nghĩa, có văn tự; Ngài giảng giải Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; thật tốt lành thay được diện kiến các bậc A-la-hán như vậy.'” | At that time, the Blessed One was dwelling near Veranja at the root of the Naleru Neem tree with a large community of monks, numbering about five hundred. The brahmin Veranja heard: “Indeed, the ascetic Gotama, a son of the Sakyans who went forth from the Sakyan clan, is staying at Veranja near the Naleru Neem tree with a large community of monks, numbering about five hundred. Regarding that Master Gotama, an excellent reputation has spread thus: ‘He is indeed the Blessed One, worthy, fully enlightened, perfect in knowledge and conduct, well-gone, knower of worlds, unsurpassed guide for those to be trained, teacher of gods and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ Having realized with his own direct knowledge, he makes known this world with its devas, maras, and brahmas, this population with its ascetics and brahmins, its gods and humans. He teaches the Dhamma that is good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and expression; he reveals the perfectly complete and pure spiritual life. It is good to see such worthy ones.” |
2.[ito paraṃ yāva pārā. 15-16 padakkhiṇaṃ katvā pakkāmīti pāṭho a. ni. 8.11] Atha kho verañjo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi . Ekamantaṃ nisinno kho verañjo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘sutaṃ metaṃ, bho gotama – ‘na samaṇo gotamo brāhmaṇe jiṇṇe vuḍḍhe mahallake addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā paccuṭṭheti vā āsanena vā nimantetī’ti. Tayidaṃ, bho gotama, tatheva? Na hi bhavaṃ gotamo brāhmaṇe jiṇṇe vuḍḍhe mahallake addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā paccuṭṭheti vā āsanena vā nimanteti? Tayidaṃ, bho gotama, na sampannamevā’’ti. | Rồi Bà-la-môn Verañja đi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, trao đổi những lời thăm hỏi thân thiện với Đức Thế Tôn. Sau khi trao đổi những lời chào hỏi xã giao, ông ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Verañja bạch Đức Thế Tôn: “Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe như vầy – ‘Sa-môn Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy, không mời chỗ ngồi cho các Bà-la-môn già cả, trưởng lão, cao niên, đã đến tuổi, đã trải qua thời gian dài’. Thưa Tôn giả Gotama, có đúng như vậy không? Bởi vì Tôn giả Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy, không mời chỗ ngồi cho các Bà-la-môn già cả, trưởng lão, cao niên, đã đến tuổi, đã trải qua thời gian dài? Thưa Tôn giả Gotama, điều này thật không thích đáng.” | Then the brahmin Veranja approached the Blessed One. Having approached, he exchanged greetings with the Blessed One. After engaging in polite and friendly conversation, he sat down to one side. Seated to one side, the brahmin Veranja said to the Blessed One: “Master Gotama, I have heard that ‘the ascetic Gotama does not pay homage to elderly, aged, senior brahmins who are advanced in years, nor does he stand up for them or offer them a seat.’ Is this true, Master Gotama? You do not pay homage to elderly, aged, senior brahmins who are advanced in years, nor stand up for them or offer them a seat? This, Master Gotama, is not proper.” |
‘‘Nāhaṃ taṃ, brāhmaṇa, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yamahaṃ abhivādeyyaṃ vā paccuṭṭheyyaṃ vā āsanena vā nimanteyyaṃ. Yañhi, brāhmaṇa, tathāgato abhivādeyya vā paccuṭṭheyya vā āsanena vā nimanteyya, muddhāpi tassa vipateyyā’’ti. | Này Bà-la-môn, trong thế giới này với chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người, Ta không thấy một ai mà Ta phải đảnh lễ, phải đứng dậy, hay mời ngồi. Này Bà-la-môn, nếu Như Lai đảnh lễ ai, đứng dậy chào ai, hay mời ai ngồi, thì đầu của người ấy sẽ vỡ tan. | I do not see anyone in this world with its devas, Mara, and Brahma, among the population with its ascetics and brahmins, its devas and humans, whom I should pay homage to, rise up for, or offer a seat to. For if the Tathagata were to pay homage to anyone, rise up for anyone, or offer a seat to anyone, even that person’s head would split open. |
3. ‘‘Arasarūpo bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘arasarūpo samaṇo gotamo’ti. Ye te, brāhmaṇa, rūparasā saddarasā gandharasā rasarasā phoṭṭhabbarasā te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā [anabhāvakatā (sī.) anabhāvaṃgatā (syā.)] āyatiṃ anuppādadhammā. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘arasarūpo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 3. Đức Thế Tôn không còn hưởng thụ sắc pháp phải không? Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng thì có thể nói rằng Sa-môn Gotama không còn hưởng thụ sắc pháp. Này Bà-la-môn, đối với Như Lai, những hưởng thụ về sắc, thanh, hương, vị, xúc đã được đoạn tận, cắt đứt tận gốc, làm cho như cây ta-la bị chặt ngọn, không thể tái sinh. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng thì có thể nói rằng Sa-môn Gotama không còn hưởng thụ sắc pháp, nhưng không phải theo ý nghĩa mà ông muốn nói. | “Is the honorable Gotama without taste?” “Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking truthfully could say ‘The ascetic Gotama is without taste.’ Brahmin, those tastes of forms, tastes of sounds, tastes of smells, tastes of flavors, and tastes of touches – the Tathagata has abandoned them, cut them off at the root, made them like a palm tree stump, obliterated them so they are no longer subject to future arising. This, brahmin, is the way in which one speaking truthfully could say ‘The ascetic Gotama is without taste,’ but this is not what you were referring to.” |
4. ‘‘Nibbhogo bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘nibbhogo samaṇo gotamo’ti. Ye te, brāhmaṇa, rūpabhogā saddabhogā gandhabhogā rasabhogā phoṭṭhabbabhogā te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘nibbhogo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 4. “Tôn giả Gotama có phải là người không hưởng thụ?” – “Này Bà-la-môn, quả thật có một cách mà nếu nói đúng về ta thì có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người không hưởng thụ’. Này Bà-la-môn, những hưởng thụ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, Như Lai đã đoạn tận, đã cắt đứt tận gốc, như cây ta-la bị chặt đứt không thể mọc lại, khiến cho không thể tái sinh trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng về ta thì có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người không hưởng thụ’, nhưng không phải theo ý nghĩa mà ông muốn nói.” | Is the ascetic Gotama without possessions? There is indeed, brahmin, a way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is without possessions.’ For me, brahmin, enjoyments of forms, sounds, smells, tastes, and touches have been abandoned, cut off at the root, made like palm stumps, obliterated, and unable to arise again in the future. This is the way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is without possessions,’ but that is not what you were referring to. |
5. ‘‘Akiriyavādo bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘akiriyavādo samaṇo gotamo’ti. Ahañhi, brāhmaṇa, akiriyaṃ vadāmi kāyaduccaritassa vacīduccaritassa manoduccaritassa. Anekavihitānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ akiriyaṃ vadāmi. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘akiriyavādo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 5. “Tôn giả Gotama là người chủ trương không hành động” chăng? “Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng về Ta, có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người chủ trương không hành động’. Này Bà-la-môn, Ta thuyết giảng về không làm các ác hạnh về thân, khẩu, ý. Ta thuyết giảng về không làm các pháp bất thiện, ác pháp đa dạng. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng về Ta, có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người chủ trương không hành động’, nhưng không phải theo ý nghĩa như ông muốn nói”. | Is the venerable Gotama a teacher of inaction? Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking truthfully could say ‘The ascetic Gotama teaches inaction.’ For I teach the non-doing of misconduct in body, speech, and mind. I teach the non-doing of various evil, unwholesome states. This, brahmin, is the way in which one speaking truthfully could say ‘The ascetic Gotama teaches inaction,’ but that is not what you were referring to. |
6. ‘‘Ucchedavādo bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘ucchedavādo samaṇo gotamo’ti. Ahañhi, brāhmaṇa, ucchedaṃ vadāmi rāgassa dosassa mohassa. Anekavihitānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ ucchedaṃ vadāmi. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘ucchedavādo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 6. Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt”. Này Bà-la-môn, Ta thuyết về sự đoạn diệt tham, sân, si. Ta thuyết về sự đoạn diệt vô số pháp bất thiện, ác pháp. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt”, nhưng không phải theo ý nghĩa mà ông muốn nói. | Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking rightly could say of me: ‘The ascetic Gotama teaches annihilation.’ For I teach the annihilation of lust, hatred, and delusion. I teach the annihilation of the many kinds of unwholesome states. This is the way in which one speaking rightly could say of me: ‘The ascetic Gotama teaches annihilation’ – but not in the way that you mean it. |
7. ‘‘Jegucchī bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘jegucchī samaṇo gotamo’ti. Ahañhi, brāhmaṇa, jigucchāmi kāyaduccaritena vacīduccaritena manoduccaritena. Anekavihitānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā jigucchāmi. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘jegucchī samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 7. “Có phải Ngài Gotama là người ghê tởm không?” – “Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng thì có thể gọi Ta là ‘Sa-môn Gotama là người ghê tởm’. Này Bà-la-môn, Ta ghê tởm thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh. Ta ghê tởm việc thực hiện nhiều loại pháp ác bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng thì có thể gọi Ta là ‘Sa-môn Gotama là người ghê tởm’, nhưng không phải theo ý nghĩa mà ông muốn nói.” | Is the venerable Gotama one who loathes evil? Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is one who loathes evil.’ For I, brahmin, loathe bodily misconduct, verbal misconduct, and mental misconduct. I loathe the undertaking of various evil, unwholesome states. This, brahmin, is the way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is one who loathes evil,’ but that is not what you were referring to. |
8. ‘‘Venayiko bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘venayiko samaṇo gotamo’ti. Ahañhi, brāhmaṇa, vinayāya dhammaṃ desemi rāgassa dosassa mohassa. Anekavihitānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ vinayāya dhammaṃ desemi. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘venayiko samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 8. “Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người hướng dẫn điều phục’. Này Bà-la-môn, Ta thuyết pháp để điều phục tham, sân, si. Ta thuyết pháp để điều phục vô số pháp bất thiện, ác pháp. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng ‘Sa-môn Gotama là người hướng dẫn điều phục’, chứ không phải như ông đã nghĩ.” | Is the Venerable Gotama a disciplinarian? Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is a disciplinarian.’ For I teach the Dhamma for the disciplining of passion, hatred, and delusion. I teach the Dhamma for the disciplining of various evil unwholesome states. This, brahmin, is the way in which one speaking truthfully could say: ‘The ascetic Gotama is a disciplinarian,’ but that is not what you were referring to. |
9. ‘‘Tapassī bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘tapassī samaṇo gotamo’ti . Tapanīyāhaṃ, brāhmaṇa, pāpake akusale dhamme vadāmi, kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ. Yassa kho, brāhmaṇa , tapanīyā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā tamahaṃ tapassīti vadāmi. Tathāgatassa kho, brāhmaṇa, tapanīyā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘tapassī samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. | 9. Thưa Ngài Gotama có phải là người khổ hạnh không? Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng thì có thể gọi Ta là Sa-môn Gotama khổ hạnh. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng các pháp ác bất thiện cần được thiêu đốt như thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh. Này Bà-la-môn, với ai đã đoạn tận các pháp ác bất thiện cần thiêu đốt, đã cắt đứt tận gốc, làm cho như thân cây ta-la không thể tái sinh, không thể sinh khởi trong tương lai, Ta gọi người ấy là người khổ hạnh. Này Bà-la-môn, với Như Lai, các pháp ác bất thiện cần thiêu đốt đã được đoạn tận, đã cắt đứt tận gốc, làm cho như thân cây ta-la không thể tái sinh, không thể sinh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng thì có thể gọi Ta là Sa-môn Gotama khổ hạnh, nhưng không phải theo nghĩa ông muốn nói. | Is the venerable Gotama an ascetic? There is indeed, brahmin, a way in which one speaking rightly could say of me: ‘The ascetic Gotama is an ascetic.’ I declare, brahmin, that evil unwholesome states that burn – misconduct of body, speech, and mind – should be burned away. When someone has abandoned these burning evil unwholesome states, uprooted them like a palm tree stump, made them non-existent and unable to arise again in the future, I call them an ascetic. The Tathagata has abandoned these burning evil unwholesome states, uprooted them like a palm tree stump, made them non-existent and unable to arise again in the future. This, brahmin, is the way in which one speaking rightly could say of me: ‘The ascetic Gotama is an ascetic,’ but not in the way you are suggesting. |
10. ‘‘Apagabbho bhavaṃ gotamo’’ti? ‘‘Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘apagabbho samaṇo gotamo’ti. Yassa kho, brāhmaṇa, āyatiṃ gabbhaseyyā punabbhavābhinibbatti pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā tamahaṃ apagabbhoti vadāmi. Tathāgatassa kho, brāhmaṇa, āyatiṃ gabbhaseyyā punabbhavābhinibbatti pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Ayaṃ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṃ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya – ‘apagabbho samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesi’’. | 10. Này Bà-la-môn, có một cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không còn tái sinh”. Này Bà-la-môn, với ai mà sự tái sinh trong tương lai, sự thọ thai, sự tái hiện hữu đã được đoạn tận, nhổ tận gốc, làm cho như cây ta-la bị chặt đứt, không thể tái sinh nữa, Ta gọi người ấy là không còn tái sinh. Này Bà-la-môn, với Như Lai, sự tái sinh trong tương lai, sự thọ thai, sự tái hiện hữu đã được đoạn tận, nhổ tận gốc, làm cho như cây ta-la bị chặt đứt, không thể tái sinh nữa. Này Bà-la-môn, đây là cách mà nếu nói đúng về Ta thì có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không còn tái sinh”, chứ không phải theo ý nghĩa mà ông muốn nói. | 10. Indeed, brahmin, there is a way in which one speaking truthfully could say of me: ‘The ascetic Gotama is free from rebirth.’ For one who has abandoned future conception, rebirth and renewed existence, uprooted them completely like a palm tree, made them impossible to arise again, and made them unable to sprout in the future – that one I call free from rebirth. The Tathagata has abandoned future conception, rebirth and renewed existence, uprooted them completely like a palm tree, made them impossible to arise again, and made them unable to sprout in the future. This, brahmin, is the way in which one speaking truthfully could say of me: ‘The ascetic Gotama is free from rebirth,’ but this is not what you meant. |
11. ‘‘Seyyathāpi, brāhmaṇa, kukkuṭiyā aṇḍāni aṭṭha vā dasa vā dvādasa vā. Tānassu kukkuṭiyā sammā adhisayitāni sammā pariseditāni sammā paribhāvitāni. Yo nu kho tesaṃ kukkuṭacchāpakānaṃ paṭhamataraṃ pādanakhasikhāya vā mukhatuṇḍakena vā aṇḍakosaṃ padāletvā sotthinā abhinibbhijjeyya, kinti svāssa vacanīyo – ‘‘jeṭṭho vā kaniṭṭho vā’’ti? ‘‘Jeṭṭhotissa, bho gotama, vacanīyo. So hi nesaṃ jeṭṭho hotī’’ti. ‘‘Evameva kho ahaṃ, brāhmaṇa, avijjāgatāya pajāya aṇḍabhūtāya pariyonaddhāya avijjaṇḍakosaṃ padāletvā ekova loke anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho. Svāhaṃ, brāhmaṇa, jeṭṭho seṭṭho lokassa’’. | 11. Này Bà-la-môn, ví như có tám, mười hay mười hai trứng gà. Những trứng ấy được gà mẹ ấp nằm đúng cách, ấp ủ đúng cách, sưởi ấm đúng cách. Trong số những gà con ấy, con nào đầu tiên dùng móng chân hay mỏ chọc thủng vỏ trứng, chui ra an toàn, thì con ấy được gọi là thế nào – “con trưởng hay con út”? “Thưa Tôn giả Gotama, con ấy phải được gọi là con trưởng. Vì nó là con trưởng trong số những con kia”. Cũng vậy, này Bà-la-môn, đối với chúng sinh bị vô minh bao phủ, như ở trong trứng, Ta là người duy nhất trên đời đã phá vỡ vỏ trứng vô minh, chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Do vậy, này Bà-la-môn, Ta là bậc trưởng thượng, tối thắng ở đời. | Just as, brahmin, when a hen has eight, ten, or twelve eggs that she has properly sat upon, properly warmed, and properly incubated. When the first chick breaks through the eggshell with its claw or beak and emerges safely, should that chick be called the eldest or the youngest? “The eldest, Master Gotama, for it is the eldest among them.” In the same way, brahmin, among people enveloped in ignorance, enclosed in the egg of ignorance, I alone broke through the shell of ignorance and awakened to supreme perfect enlightenment in the world. Thus, brahmin, I am the eldest, the highest in the world. |
‘‘Āraddhaṃ kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ [viriyaṃ (sī. syā.)] ahosi asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā [appamuṭṭhā (sī. syā.)], passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṃ sato ca sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedesiṃ , yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti – ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. | Này Bà-la-môn, ta đã phát khởi tinh tấn không thối chuyển, chánh niệm được thiết lập không dao động, thân thể khinh an không căng thẳng, tâm định tĩnh nhất tâm. Này Bà-la-môn, ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Diệt tầm và tứ, ta chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, ta chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, ta chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. | Indeed, O Brahmin, my energy was aroused and unflagging, mindfulness was established and unconfused, my body was tranquil and unperturbed, my mind was concentrated and unified. Thus, O Brahmin, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, I entered upon and dwelled in the first jhana, which is accompanied by thought and examination, with rapture and happiness born of seclusion. With the subsiding of thought and examination, I entered upon and dwelled in the second jhana, which has internal confidence and unification of mind, is without thought and examination, and has rapture and happiness born of concentration. With the fading away of rapture, I dwelled in equanimity, mindful and clearly comprehending, experiencing happiness with the body; I entered upon and dwelled in the third jhana of which the noble ones declare: ‘One who is equanimous and mindful dwells in happiness.’ With the abandoning of pleasure and pain, and with the previous disappearance of joy and sadness, I entered upon and dwelled in the fourth jhana, which is neither painful nor pleasant and includes the purification of mindfulness by equanimity. |
12. ‘‘So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi , seyyathidaṃ – ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi, jātisahassampi jātisatasahassampi, anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe – ‘amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto; so tato cuto amutra udapādiṃ; tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto; so tato cuto idhūpapannoti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā paṭhame yāme paṭhamā vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno – yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, paṭhamābhinibbhidā ahosi kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā. | 12. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững vàng, bất động như vậy, ta hướng tâm đến túc mạng minh. Ta nhớ lại nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều kiếp hoại thế giới, nhiều kiếp thành thế giới, nhiều kiếp thành hoại thế giới. Ta nhớ rằng: “Khi đó ta có tên như vậy, dòng họ như vậy, giai cấp như vậy, thức ăn như vậy, sự sung sướng khổ đau như vậy, tuổi thọ như vậy. Sau khi chết từ chỗ kia, ta tái sinh tại chỗ nọ. Tại đây, ta lại có tên như vậy, dòng họ như vậy, giai cấp như vậy, thức ăn như vậy, sự sung sướng khổ đau như vậy, tuổi thọ như vậy. Sau khi chết từ chỗ đó, ta tái sinh ở đây”. Như vậy ta nhớ lại nhiều đời quá khứ với các nét đặc thù và các chi tiết. Này Bà-la-môn, trong canh một của đêm ấy, ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sinh, bóng tối diệt, ánh sáng sinh, như vậy đối với người sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự đột phá đầu tiên của ta, như gà con phá vỡ vỏ trứng. | With such a concentrated mind, purified, cleansed, unblemished, free from defilements, malleable, workable, steady, and imperturbable, I directed my mind to the knowledge of recollecting past lives. I recalled my manifold past lives, that is, one birth, two births, three births, four births, five births, ten births, twenty births, thirty births, forty births, fifty births, a hundred births, a thousand births, a hundred thousand births, many eons of world-contraction, many eons of world-expansion, many eons of world-contraction and expansion: ‘There I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my food, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; passing away from there, I reappeared elsewhere; there too I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my food, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; passing away from there, I reappeared here.’ Thus I remembered my manifold past lives with their aspects and details. O Brahmin, this was the first true knowledge attained by me in the first watch of the night. Ignorance was dispelled and true knowledge arose, darkness was dispelled and light arose, as happens in one who abides diligent, ardent, and resolute. O Brahmin, this was my first breakthrough, like a chick breaking out of its eggshell. |
13. ‘‘So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ . So dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena [atikkantamānussakena (ka.)] satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe. Sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi – ‘ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe. Sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā majjhime yāme dutiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno – yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, dutiyābhinibbhidā ahosi kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā. | 13. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, ta hướng tâm đến trí tuệ về sự sinh tử của chúng sinh. Với thiên nhãn thanh tịnh siêu việt loài người, ta thấy các chúng sinh chết đi tái sinh, kẻ thấp người cao, kẻ đẹp người xấu, kẻ may mắn kẻ bất hạnh, tùy theo nghiệp của họ. Ta biết rõ: “Những chúng sinh này thành tựu thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, làm những nghiệp tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sinh kia thành tựu thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, làm những nghiệp chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào thiện thú, cõi trời”. Như vậy, với thiên nhãn thanh tịnh siêu việt loài người, ta thấy các chúng sinh chết đi tái sinh, kẻ thấp người cao, kẻ đẹp người xấu, kẻ may mắn kẻ bất hạnh, tùy theo nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, đó là minh thứ hai ta chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sinh, bóng tối diệt, ánh sáng sinh, như người không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự phá vỡ lần thứ hai, như gà con phá vỡ vỏ trứng. | With my mind thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of imperfection, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of the passing away and reappearance of beings. With the divine eye, purified and surpassing human vision, I saw beings passing away and reappearing – inferior and superior, fair and ugly, fortunate and unfortunate. I understood how beings fare according to their actions: ‘These beings – who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled noble ones, held wrong views, and undertook actions based on wrong views – with the breakup of the body, after death, have reappeared in realms of deprivation, bad destinations, lower realms, hell. But these beings – who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile noble ones, who held right views, and undertook actions based on right views – with the breakup of the body, after death, have reappeared in good destinations, in the heavenly world.’ Thus with the divine eye, purified and surpassing human vision, I saw beings passing away and reappearing – inferior and superior, fair and ugly, fortunate and unfortunate – and I understood how beings fare according to their actions. This, brahman, was the second knowledge I attained in the middle watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose – as happens in one who is heedful, ardent, and resolute. This, brahman, was my second breakthrough, like a chick breaking out of its shell. |
14. ‘‘So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ; ‘ime āsavā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsavasamudayo’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsavanirodho’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsavanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccittha bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha avijjāsavāpi cittaṃ vimuccittha. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ ahosi. ‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti abbhaññāsiṃ. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā pacchime yāme tatiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno – yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, tatiyābhinibbhidā ahosi – kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā’’ti. | 14. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, ta hướng tâm đến trí tuệ về sự đoạn tận các lậu hoặc. Ta như thật tuệ tri: “Đây là khổ”, như thật tuệ tri: “Đây là nguyên nhân của khổ”, như thật tuệ tri: “Đây là sự diệt khổ”, như thật tuệ tri: “Đây là con đường đưa đến diệt khổ”; như thật tuệ tri: “Đây là những lậu hoặc”, như thật tuệ tri: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, như thật tuệ tri: “Đây là sự diệt trừ lậu hoặc”, như thật tuệ tri: “Đây là con đường đưa đến diệt trừ lậu hoặc”. Do ta biết và thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Khi đã giải thoát, trí khởi lên: “Đã giải thoát”. Ta tuệ tri: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. Này Bà-la-môn, đây là minh thứ ba ta đã chứng được trong canh cuối của đêm ấy, vô minh diệt, minh sinh, bóng tối diệt, ánh sáng sinh – như vậy đối với người sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự đột phá thứ ba của ta – như gà con phá vỡ vỏ trứng. | With such a concentrated mind – purified, cleansed, unblemished, free from defilements, malleable, workable, steady, and imperturbable – I directed my mind to the knowledge of the destruction of the taints. I understood as it really is: ‘This is suffering’; I understood as it really is: ‘This is the origin of suffering’; I understood as it really is: ‘This is the cessation of suffering’; I understood as it really is: ‘This is the path leading to the cessation of suffering.’ I understood as it really is: ‘These are the taints’; I understood as it really is: ‘This is the origin of the taints’; I understood as it really is: ‘This is the cessation of the taints’; I understood as it really is: ‘This is the path leading to the cessation of the taints.’ Knowing and seeing thus, my mind was liberated from the taint of sensual desire, from the taint of existence, and from the taint of ignorance. When liberated, there was the knowledge: ‘It is liberated.’ I understood: ‘Birth is ended, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.’ This, brahmin, was the third true knowledge attained by me in the last watch of the night. Ignorance was banished and true knowledge arose, darkness was banished and light arose, as happens in one who dwells diligent, ardent, and resolute. This, brahmin, was my third breaking out, like a chick breaking out of its shell. |
15. Evaṃ vutte, verañjo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘jeṭṭho bhavaṃ gotamo, seṭṭho bhavaṃ gotamo! Abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama!! Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – cakkhumanto rūpāni dakkhantīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito . Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ. Adhivāsetu ca me bhavaṃ gotamo verañjāyaṃ vassāvāsaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenā’’ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. Atha kho verañjo brāhmaṇo bhagavato adhivāsanaṃ viditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. | 15. Khi nghe như vậy, Bà-la-môn Verañja bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Tôn giả Gotama là bậc tối thượng, Tôn giả Gotama là bậc tối tôn! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama, thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!! Như người dựng lại vật bị lật úp, vén mở điều bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc, cũng vậy Pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tăng đoàn. Xin Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử tại gia, từ nay cho đến trọn đời con xin quy y. Và xin Tôn giả Gotama cùng Tăng đoàn nhận lời mời an cư mùa mưa tại Verañja.” Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Khi ấy, Bà-la-môn Verañja biết Đức Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Thế Tôn, đi nhiễu quanh Ngài rồi từ giã. | When this was said, the brahmin Verañja said to the Blessed One: “Venerable Gotama is the highest, Venerable Gotama is the best! Excellent, Venerable Gotama, excellent! Just as one might set upright what has been overturned, or reveal what was hidden, or show the way to one who is lost, or hold up a lamp in the darkness so that those with eyes can see forms, in the same way the Dhamma has been made clear by Venerable Gotama in many ways. I go for refuge to Venerable Gotama, to the Dhamma, and to the Sangha of monks. May Venerable Gotama remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forward for life. And may Venerable Gotama consent to spend the rains residence in Verañja together with the Sangha of monks.” The Blessed One consented by remaining silent. Then the brahmin Verañja, understanding the Blessed One’s consent, rose from his seat, paid homage to the Blessed One, circumambulated him, and departed. |
16. Tena kho pana samayena verañjā dubbhikkhā hoti dvīhitikā setaṭṭhikā salākāvuttā na sukarā uñchena paggahena yāpetuṃ. Tena kho pana samayena uttarāpathakā [uttarāhakā (sī.)] assavāṇijā [assavaṇijā (ka.)] pañcamattehi assasatehi verañjaṃ vassāvāsaṃ upagatā honti. Tehi assamaṇḍalikāsu bhikkhūnaṃ patthapatthapulakaṃ [patthapatthamūlakaṃ (ka.)] paññattaṃ hoti. Bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya verañjaṃ piṇḍāya pavisitvā piṇḍaṃ alabhamānā assamaṇḍalikāsu piṇḍāya caritvā patthapatthapulakaṃ ārāmaṃ āharitvā udukkhale koṭṭetvā koṭṭetvā paribhuñjanti. Āyasmā panānando patthapulakaṃ silāyaṃ pisitvā bhagavato upanāmeti. Taṃ bhagavā paribhuñjati. | Lúc bấy giờ, tại Verañjā đang có nạn đói, mùa màng thất bát, lúa biến thành màu trắng, phải phân phối theo phiếu, khó có thể sống bằng cách đi khất thực. Vào thời điểm đó, có những thương nhân buôn ngựa từ vùng Uttarāpatha đến Verañjā để trú mưa với khoảng 500 con ngựa. Họ đã chuẩn bị từng phần thóc cho các vị tỳ kheo tại các chuồng ngựa. Vào buổi sáng, các vị tỳ kheo đắp y mang bát vào thành Verañjā khất thực, không nhận được vật thực, các vị đến các chuồng ngựa khất thực, mang từng phần thóc về tu viện, giã trong cối rồi thọ dụng. Tôn giả Ānanda nghiền thóc trên đá rồi dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng phần ấy. | At that time, Veranja was experiencing a severe famine with widespread crop failure, where white bones were scattered about, and people survived on distributed food rations. It was difficult to sustain oneself through gleaning. During this period, horse merchants from the Northern region had come to Veranja for the rainy season residence with about five hundred horses. They arranged measures of grain husks for the monks in the horse pens. In the morning, the monks, having dressed and taken their bowls and robes, entered Veranja for alms. Unable to obtain food, they went for alms to the horse pens, brought back measures of grain husks to the monastery, pounded them in mortars, and ate them. Venerable Ananda would grind the grain husks on a stone and offer them to the Blessed One, who would then consume them. |
Assosi kho bhagavā udukkhalasaddaṃ. Jānantāpi tathāgatā pucchanti, jānantāpi na pucchanti; kālaṃ viditvā pucchanti, kālaṃ viditvā na pucchanti; atthasaṃhitaṃ tathāgatā pucchanti, no anatthasaṃhitaṃ. Anatthasaṃhite setughāto tathāgatānaṃ. Dvīhi ākārehi buddhā bhagavanto bhikkhū paṭipucchanti – dhammaṃ vā desessāma, sāvakānaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapessāmāti [paññāpessāmāti (sī. syā.)]. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘kiṃ nu kho so, ānanda, udukkhalasaddo’’ti? Atha kho āyasmā ānando bhagavato etamatthaṃ ārocesi . ‘‘Sādhu sādhu, ānanda! Tumhehi, ānanda sappurisehi vijitaṃ. Pacchimā janatā sālimaṃsodanaṃ atimaññissatī’’ti. | Đức Thế Tôn nghe thấy tiếng chày giã gạo. Như Lai dù biết vẫn hỏi, dù biết có khi không hỏi; biết đúng thời thì hỏi, biết đúng thời thì không hỏi; Như Lai chỉ hỏi những điều có lợi ích, không hỏi những điều vô ích. Với những điều vô ích, Như Lai đã dứt bỏ. Chư Phật Thế Tôn hỏi các Tỳ kheo với hai mục đích – hoặc để thuyết pháp, hoặc để ban hành học giới cho các đệ tử. Rồi Đức Thế Tôn gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, tiếng gì vậy, tiếng chày giã gạo phải không?” Tôn giả Ānanda liền trình bày sự việc lên Đức Thế Tôn. “Lành thay, lành thay, Ānanda! Các thiện nam tử các ông đã chiến thắng. Những thế hệ sau sẽ khinh thường cơm gạo thịt.” | The Blessed One heard the sound of a mortar. The Tathagatas ask questions both when they know and when they do not know; they ask questions at the proper time and refrain at the improper time; they ask questions that are meaningful, not meaningless. For the Tathagatas, the bridge to meaningless things is destroyed. The Blessed Buddhas question monks for two reasons: to teach the Dhamma or to establish a training rule for disciples. Then the Blessed One addressed Venerable Ananda: “What is that sound of a mortar, Ananda?” Then Venerable Ananda informed the Blessed One of the matter. “Well done, well done, Ananda! You noble ones have conquered. Future generations will despise rice and meat curry.” |
17. Atha kho āyasmā mahāmoggallāno [mahāmoggalāno (ka.)] yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahāmoggallāno bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘etarahi, bhante, verañjā dubbhikkhā dvīhitikā setaṭṭhikā salākāvuttā. Na sukarā uñchena paggahena yāpetuṃ. Imissā, bhante, mahāpathaviyā heṭṭhimatalaṃ sampannaṃ – seyyathāpi khuddamadhuṃ anīlakaṃ evamassādaṃ. Sādhāhaṃ, bhante, pathaviṃ parivatteyyaṃ. Bhikkhū pappaṭakojaṃ paribhuñjissantī’’ti. ‘‘Ye pana te, moggallāna, pathavinissitā pāṇā te kathaṃ karissasī’’ti? ‘‘Ekāhaṃ, bhante, pāṇiṃ abhinimminissāmi – seyyathāpi mahāpathavī. Ye pathavinissitā pāṇā te tattha saṅkāmessāmi. Ekena hatthena pathaviṃ parivattessāmī’’ti. ‘‘Alaṃ, moggallāna, mā te rucci pathaviṃ parivattetuṃ. Vipallāsampi sattā paṭilabheyyu’’nti. ‘‘Sādhu, bhante, sabbo bhikkhusaṅgho uttarakuruṃ piṇḍāya gaccheyyā’’ti. ‘‘Alaṃ, moggallāna, mā te rucci sabbassa bhikkhusaṅghassa uttarakuruṃ piṇḍāya gamana’’nti. | Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna đi đến nơi Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống, Tôn giả Mahāmoggallāna bạch với Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, hiện nay ở Verañjā đang có nạn đói, mùa màng thất bát, lúa gạo khan hiếm, phải dùng phiếu phát thực phẩm. Thật khó sống bằng khất thực. Bạch Thế Tôn, bên dưới mặt đất này rất phì nhiêu – ngọt như mật ong tinh khiết vậy. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu con lật ngược mặt đất lên. Các tỳ kheo sẽ được thọ dụng tinh chất của đất.” “Này Moggallāna, còn các sinh vật sống nương vào đất thì ngươi sẽ làm sao?” “Bạch Thế Tôn, con sẽ hóa ra một bàn tay như đại địa. Con sẽ dời các sinh vật sống nương đất qua đó. Rồi con sẽ lật đất bằng tay kia.” “Thôi đủ rồi, Moggallāna, đừng nghĩ đến việc lật đất. Các chúng sinh có thể bị đảo lộn.” “Lành thay, bạch Thế Tôn, vậy để toàn thể Tăng đoàn đi khất thực ở Uttarakuru.” “Thôi đủ rồi, Moggallāna, đừng nghĩ đến việc toàn thể Tăng đoàn đi khất thực ở Uttarakuru.” | Then Venerable Mahāmoggallāna approached the Blessed One, and having paid homage, sat down to one side. Once seated, he said to the Blessed One: “Lord, at present Verañjā is experiencing a famine, food is scarce, crops have turned white, and people are living on food stamps. It is difficult to sustain oneself by gathering alms. The lower layer of this great earth is rich – like pure honey, equally sweet. Lord, let me turn the earth upside down. The monks can then eat the essence of the earth.” “But Moggallāna, what about the creatures that depend on the earth?” “Lord, I will create one hand like the great earth. I will move those earth-dependent creatures there. Then with my other hand, I will turn the earth.” “Enough, Moggallāna, do not turn the earth upside down. Beings might become disoriented.” “Then Lord, let the entire Sangha go for alms to Uttarakuru.” “Enough, Moggallāna, do not suggest that the entire Sangha go for alms to Uttarakuru.” |
18. Atha kho āyasmato sāriputtassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘‘katamesānaṃ kho buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi; katamesānaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti? Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ [sāyaṇhasamayaṃ (sī.)] paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idha mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘katamesānaṃ kho buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi, katamesānaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’ti. ‘Katamesānaṃ nu kho, bhante, buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi, katamesānaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’’ti? | 18. Rồi khi Tôn giả Sāriputta đang thiền tịnh một mình, trong tâm khởi lên ý nghĩ: “Đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào không tồn tại lâu dài, và đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào tồn tại lâu dài?” Sau đó, vào buổi chiều, Tôn giả Sāriputta xuất thiền, đi đến gặp Đức Thế Tôn. Đến nơi, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên xong, Tôn giả Sāriputta bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, khi con đang thiền tịnh một mình, trong tâm con khởi lên ý nghĩ: ‘Đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào không tồn tại lâu dài, và đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào tồn tại lâu dài?’ Bạch Thế Tôn, đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào không tồn tại lâu dài, và đời sống phạm hạnh của chư Phật Thế Tôn nào tồn tại lâu dài?” | Then, while the Venerable Sariputta was alone in seclusion, this thought arose in his mind: “For which Blessed Buddhas did the holy life not last long, and for which Blessed Buddhas did the holy life last long?” Then, in the evening, the Venerable Sariputta emerged from seclusion and approached the Blessed One. Having approached and paid homage to the Blessed One, he sat to one side. Seated to one side, the Venerable Sariputta said to the Blessed One: “Lord, while I was alone in seclusion, this thought arose in my mind: ‘For which Blessed Buddhas did the holy life not last long, and for which Blessed Buddhas did the holy life last long?’ Lord, for which Blessed Buddhas did the holy life not last long, and for which Blessed Buddhas did the holy life last long?” |
‘‘Bhagavato ca, sāriputta, vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi. Bhagavato ca, sāriputta, kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti. | Này Sāriputta, đời sống phạm hạnh của Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī và Đức Phật Vessabhū không tồn tại lâu dài. Còn đời sống phạm hạnh của Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana và Đức Phật Kassapa thì tồn tại lâu dài. | The holy life under Blessed Ones Vipassi, Sikhi, and Vessabhu did not last long, Sariputta. However, the holy life under Blessed Ones Kakusandha, Konagamana, and Kassapa endured for a long time. |
19. ‘‘Ko nu kho , bhante, hetu ko paccayo, yena bhagavato ca vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti? ‘‘Bhagavā ca, sāriputta, vipassī bhagavā ca sikhī bhagavā ca vessabhū kilāsuno ahesuṃ sāvakānaṃ vitthārena dhammaṃ desetuṃ. Appakañca nesaṃ ahosi suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthā udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ abbhutadhammaṃ vedallaṃ. Apaññattaṃ sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ. Anuddiṭṭhaṃ pātimokkhaṃ. Tesaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ antaradhānena buddhānubuddhānaṃ sāvakānaṃ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṃ brahmacariyaṃ khippaññeva antaradhāpesuṃ. Seyyathāpi, sāriputta, nānāpupphāni phalake nikkhittāni suttena asaṅgahitāni tāni vāto vikirati vidhamati viddhaṃseti. Taṃ kissa hetu? Yathā taṃ suttena asaṅgahitattā. Evameva kho, sāriputta, tesaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ antaradhānena buddhānubuddhānaṃ sāvakānaṃ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṃ brahmacariyaṃ khippaññeva antaradhāpesuṃ. | 19. Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà đời sống phạm hạnh dưới thời Thế Tôn Vipassī, Thế Tôn Sikhī và Thế Tôn Vessabhū không được tồn tại lâu dài? Này Sāriputta, Thế Tôn Vipassī, Thế Tôn Sikhī và Thế Tôn Vessabhū đã không nhiệt tâm thuyết pháp rộng rãi cho các đệ tử. Các ngài có rất ít kinh điển như Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu và Phương quảng. Giới luật không được chế định cho các đệ tử. Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa không được tuyên thuyết. Sau khi các đức Phật ấy diệt độ, sau khi các đệ tử được giác ngộ theo Phật diệt độ, những đệ tử sau này với nhiều tên họ, nhiều dòng tộc, nhiều xuất thân, nhiều gia đình khác nhau đã xuất gia và khiến đời sống phạm hạnh ấy nhanh chóng suy tàn. Này Sāriputta, ví như các loại hoa được đặt trên một tấm ván mà không được kết lại bằng sợi chỉ, gió thổi sẽ làm chúng tán loạn, phân tán và rơi rụng. Vì sao vậy? Vì chúng không được kết lại bằng sợi chỉ. Cũng vậy, này Sāriputta, sau khi các đức Phật ấy diệt độ, sau khi các đệ tử được giác ngộ theo Phật diệt độ, những đệ tử sau này với nhiều tên họ, nhiều dòng tộc, nhiều xuất thân, nhiều gia đình khác nhau đã xuất gia và khiến đời sống phạm hạnh ấy nhanh chóng suy tàn. | What is the cause and reason, venerable sir, why the holy life taught by the Blessed Ones Vipassi, Sikhi, and Vessabhu did not last long? Venerable Sariputta, the Blessed Ones Vipassi, Sikhi, and Vessabhu were disinclined to teach the Dhamma in detail to their disciples. They had few discourses, verses, expositions, stanzas, exclamations, sayings, birth stories, marvels, and analyses. Training rules for disciples were not established, and the Patimokkha was not instituted. After these Blessed Ones disappeared, and after their enlightened disciples disappeared, those who entered the holy life later – of different names, clans, births, and families – caused that holy life to disappear quickly. Just as, Sariputta, various flowers placed on a wooden board without being tied together with a string are scattered, blown away, and destroyed by the wind because they are not held together by the string, similarly, after these Blessed Ones disappeared, and after their enlightened disciples disappeared, those who entered the holy life later – of different names, clans, births, and families – caused that holy life to disappear quickly. |
‘‘Akilāsuno ca te bhagavanto ahesuṃ sāvake cetasā ceto paricca ovadituṃ. Bhūtapubbaṃ, sāriputta, vessabhū bhagavā arahaṃ sammāsambuddho aññatarasmiṃ bhiṃsanake [bhīsanake (ka.)] vanasaṇḍe sahassaṃ bhikkhusaṅghaṃ cetasā ceto paricca ovadati anusāsati – ‘evaṃ vitakketha, mā evaṃ vitakkayittha; evaṃ manasikarotha, mā evaṃ manasākattha [manasākarittha (ka.)]; idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’ti. Atha kho, sāriputta, tassa bhikkhusahassassa vessabhunā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena evaṃ ovadiyamānānaṃ evaṃ anusāsiyamānānaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu. Tatra sudaṃ, sāriputta, bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti – yo koci avītarāgo taṃ vanasaṇḍaṃ pavisati, yebhuyyena lomāni haṃsanti. Ayaṃ kho, sāriputta, hetu ayaṃ paccayo yena bhagavato ca vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti. | Và các Đức Thế Tôn ấy không mệt mỏi trong việc dùng tâm để hiểu tâm và giáo huấn các đệ tử. Này Sāriputta, thuở xưa, Đức Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, trong một khu rừng rậm đáng sợ, đã dùng tâm để hiểu tâm và giáo huấn, chỉ dạy một ngàn vị tỳ khưu: “Hãy suy nghĩ như vầy, đừng suy nghĩ như thế; hãy tác ý như vầy, đừng tác ý như thế; hãy từ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú trong điều này.” Này Sāriputta, khi một ngàn vị tỳ khưu ấy được Đức Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giáo huấn và chỉ dạy như vậy, tâm của họ đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ. Này Sāriputta, trong khu rừng rậm đáng sợ ấy, bất cứ ai chưa đoạn trừ tham ái mà đi vào khu rừng ấy, phần lớn đều rởn tóc gáy. Này Sāriputta, đây là nguyên nhân, đây là lý do khiến Phạm hạnh của Đức Thế Tôn Vipassī, Đức Thế Tôn Sikhī và Đức Thế Tôn Vessabhū không tồn tại lâu dài. | And those Blessed Ones were untiring in teaching their disciples through direct knowledge of their minds. Once, Sariputta, the Blessed One Vessabhu, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, in a certain frightening forest grove, instructed and guided a thousand-strong Sangha of monks through direct knowledge of their minds, saying: “Think thus, do not think like that; attend thus, do not attend like that; abandon this, attain this and abide in it.” Then, Sariputta, as that thousand monks were being thus instructed and guided by the Blessed One Vessabhu, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, their minds were liberated from the taints through non-clinging. At that time, Sariputta, that frightening forest grove was indeed terrifying – whoever entered that forest grove without being free from passion, their hair would usually stand on end. This, Sariputta, was the reason, this was the cause why the holy life under the Blessed Ones Vipassi, Sikhi, and Vessabhu did not last long. |
20. ‘‘Ko pana, bhante, hetu ko paccayo yena bhagavato ca kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti? ‘‘Bhagavā ca, sāriputta, kakusandho bhagavā ca koṇāgamano bhagavā ca kassapo akilāsuno ahesuṃ sāvakānaṃ vitthārena dhammaṃ desetuṃ. Bahuñca nesaṃ ahosi suttaṃ geyyaṃ veyyākaraṇaṃ gāthā udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ abbhutadhammaṃ vedallaṃ, paññattaṃ sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ, uddiṭṭhaṃ pātimokkhaṃ. Tesaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ antaradhānena buddhānubuddhānaṃ sāvakānaṃ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṃ brahmacariyaṃ ciraṃ dīghamaddhānaṃ ṭhapesuṃ. Seyyathāpi, sāriputta, nānāpupphāni phalake nikkhittāni suttena susaṅgahitāni tāni vāto na vikirati na vidhamati na viddhaṃseti. Taṃ kissa hetu? Yathā taṃ suttena susaṅgahitattā. Evameva kho, sāriputta, tesaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ antaradhānena buddhānubuddhānaṃ sāvakānaṃ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṃ brahmacariyaṃ ciraṃ dīghamaddhānaṃ ṭhapesuṃ. Ayaṃ kho, sāriputta, hetu ayaṃ paccayo yena bhagavato ca kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti. | 20. Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà đời sống phạm hạnh dưới thời Thế Tôn Kakusandha, Thế Tôn Konagamana và Thế Tôn Kassapa được tồn tại lâu dài? Này Sāriputta, Thế Tôn Kakusandha, Thế Tôn Konagamana và Thế Tôn Kassapa không mệt mỏi thuyết pháp chi tiết cho các đệ tử. Các ngài có nhiều kinh, kệ tụng, ký thuyết, kệ, cảm hứng ngữ, như thị thuyết, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng, và đã chế định học giới cho các đệ tử, tụng đọc giới bổn. Khi các Đức Phật Thế Tôn ấy và các đệ tử giác ngộ theo Phật viên tịch, những đệ tử sau này tuy khác tên, khác họ, khác sinh, khác tộc xuất gia, đã duy trì đời sống phạm hạnh ấy trong thời gian dài. Này Sāriputta, ví như các loại hoa được xếp trên tấm ván, được khéo kết lại bằng sợi chỉ, gió không thể cuốn đi, không thể làm tung tóe, không thể làm rơi rụng. Vì sao vậy? Vì chúng được khéo kết lại bằng sợi chỉ. Cũng vậy, này Sāriputta, khi các Đức Phật Thế Tôn ấy và các đệ tử giác ngộ theo Phật viên tịch, những đệ tử sau này tuy khác tên, khác họ, khác sinh, khác tộc xuất gia, đã duy trì đời sống phạm hạnh ấy trong thời gian dài. Này Sāriputta, đây là nhân, đây là duyên khiến đời sống phạm hạnh dưới thời Thế Tôn Kakusandha, Thế Tôn Konagamana và Thế Tôn Kassapa được tồn tại lâu dài. | What is the reason, venerable sir, for the long-lasting spiritual practice of the Blessed Ones Kakusandha, Konagamana, and Kassapa? The Blessed Ones Kakusandha, Konagamana, and Kassapa, Sariputta, were tireless in teaching the Dhamma in detail to their disciples. They had many suttas, verses, explanations, stanzas, exclamations, sayings, birth stories, marvelous events, and analyses. They established training rules for disciples and recited the Patimokkha. After these Buddhas and their enlightened disciples passed away, their later disciples – though of different names, clans, births, and families – maintained that spiritual practice for a long time. Just as, Sariputta, various flowers placed on a board and well-bound with thread are not scattered, blown, or dispersed by the wind because they are well-bound by the thread, similarly, after these Buddhas and their enlightened disciples passed away, their later disciples – though of different names, clans, births, and families – maintained that spiritual practice for a long time. This, Sariputta, is the reason for the long-lasting spiritual practice of the Blessed Ones Kakusandha, Konagamana, and Kassapa. |
21. Atha kho āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘etassa, bhagavā, kālo! Etassa, sugata, kālo! Yaṃ bhagavā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeyya [paññāpeyya (sī. syā.)], uddiseyya pātimokkhaṃ, yathayidaṃ brahmacariyaṃ addhaniyaṃ assa ciraṭṭhitika’’nti. ‘‘Āgamehi tvaṃ, sāriputta ! Āgamehi tvaṃ, sāriputta! Tathāgatova tattha kālaṃ jānissati. Na tāva, sāriputta, satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati [na uddisati (sī.)] pātimokkhaṃ yāva na idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti. Yato ca kho, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddissati pātimokkhaṃ tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāya. Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti yāva na saṅgho rattaññumahattaṃ patto hoti. Yato ca kho, sāriputta, saṅgho rattaññumahattaṃ patto hoti atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha, satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati pātimokkhaṃ tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāya. Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho vepullamahattaṃ patto hoti. Yato ca kho, sāriputta, saṅgho vepullamahattaṃ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati pātimokkhaṃ tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāya. Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho lābhaggamahattaṃ patto hoti. Yato ca kho, sāriputta, saṅgho lābhaggamahattaṃ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati pātimokkhaṃ tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāya. Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho bāhusaccamahattaṃ patto hoti. Yato ca kho, sāriputta, saṅgho bāhusaccamahattaṃ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati pātimokkhaṃ tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāya. Nirabbudo hi, sāriputta, bhikkhusaṅgho nirādīnavo apagatakāḷako suddho sāre patiṭṭhito. Imesañhi, sāriputta, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ yo pacchimako bhikkhu so sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’’ti. | 21. Rồi Tôn giả Sāriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vai trái, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời! Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời! Để Thế Tôn chế định học giới cho các đệ tử, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha, để Phạm hạnh này được trường tồn, vững bền”. “Này Sāriputta, hãy chờ đợi! Này Sāriputta, hãy chờ đợi! Như Lai sẽ tự biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng, bấy giờ Đạo Sư chưa chế định học giới, chưa tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử. Này Sāriputta, khi nào một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng, khi ấy Đạo Sư mới chế định học giới, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử để đối trị chính những pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào Tăng chúng chưa đạt đến sự trưởng thành về thời gian, một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng. Khi nào Tăng chúng đạt đến sự trưởng thành về thời gian, bấy giờ một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng, khi ấy Đạo Sư mới chế định học giới, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử để đối trị chính những pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào Tăng chúng chưa đạt đến sự trưởng thành về số lượng, một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng. Khi nào Tăng chúng đạt đến sự trưởng thành về số lượng, bấy giờ một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng, khi ấy Đạo Sư mới chế định học giới, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử để đối trị chính những pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào Tăng chúng chưa đạt đến sự trưởng thành về lợi dưỡng, một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng. Khi nào Tăng chúng đạt đến sự trưởng thành về lợi dưỡng, bấy giờ một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng, khi ấy Đạo Sư mới chế định học giới, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử để đối trị chính những pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào Tăng chúng chưa đạt đến sự trưởng thành về đa văn, một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng. Khi nào Tăng chúng đạt đến sự trưởng thành về đa văn, bấy giờ một số pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng, khi ấy Đạo Sư mới chế định học giới, tuyên thuyết giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử để đối trị chính những pháp làm cơ sở cho các lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, Tăng chúng Tỳ kheo không có chướng ngại, không có tai họa, không có vết nhơ, thanh tịnh, an trú trong tinh hoa. Này Sāriputta, trong năm trăm Tỳ kheo này, vị Tỳ kheo thấp nhất cũng là bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc hướng đến giác ngộ”. | Then the Venerable Sariputta rose from his seat, arranged his upper robe over one shoulder, raised his joined palms toward the Blessed One, and said: “It is time, Lord! It is time, Well-Gone One! Let the Blessed One establish the training rules for the disciples and proclaim the Patimokkha, so that this holy life may be long-lasting.” “Wait, Sariputta! Wait, Sariputta! The Tathagata will know the right time for this. The Teacher does not establish training rules for disciples or proclaim the Patimokkha until certain conditions that give rise to the taints appear in the Sangha. When such conditions appear in the Sangha, then the Teacher establishes training rules and proclaims the Patimokkha for the removal of those very conditions. “Sariputta, such conditions do not appear until the Sangha has attained long standing. When the Sangha attains long standing, then such conditions appear, and the Teacher establishes training rules and proclaims the Patimokkha for their removal. “Such conditions do not appear until the Sangha has attained full development. When the Sangha attains full development, then such conditions appear, and the Teacher establishes training rules and proclaims the Patimokkha for their removal. “Such conditions do not appear until the Sangha has attained supreme gains. When the Sangha attains supreme gains, then such conditions appear, and the Teacher establishes training rules and proclaims the Patimokkha for their removal. “Such conditions do not appear until the Sangha has attained great learning. When the Sangha attains great learning, then such conditions appear, and the Teacher establishes training rules and proclaims the Patimokkha for their removal. “Sariputta, this community of monks is devoid of trouble, devoid of evil, cleansed of stains, pure, established in the essential. Among these five hundred monks, the last is a Stream-Enterer, no longer bound for the lower worlds, assured of enlightenment.” |
22. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘āciṇṇaṃ kho panetaṃ, ānanda, tathāgatānaṃ yehi nimantitā vassaṃ vasanti, na te anapaloketvā janapadacārikaṃ pakkamanti. Āyāmānanda, verañjaṃ brāhmaṇaṃ apalokessāmā’’ti. ‘‘Evaṃ bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi. Atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā ānandena pacchāsamaṇena yena verañjassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho verañjo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami ; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho verañjaṃ brāhmaṇaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘nimantitamha tayā, brāhmaṇa , vassaṃvuṭṭhā [vassaṃvutthā (sī. syā. ka.)], apalokema taṃ, icchāma mayaṃ janapadacārikaṃ pakkamitu’’nti. ‘‘Saccaṃ, bho gotama, nimantitattha mayā vassaṃvuṭṭhā; api ca, yo deyyadhammo so na dinno. Tañca kho no asantaṃ, nopi adātukamyatā, taṃ kutettha labbhā bahukiccā gharāvāsā bahukaraṇīyā. Adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenā’’ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. Atha kho bhagavā verañjaṃ brāhmaṇaṃ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi. Atha kho verañjo brāhmaṇo tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi – ‘‘kālo, bho gotama, niṭṭhitaṃ bhatta’’nti. | Rồi Đức Thế Tôn gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, đây là thông lệ của chư Như Lai, không rời đi du hành qua các địa phương mà không từ biệt những người đã thỉnh mời an cư. Này Ānanda, chúng ta hãy đến từ biệt Bà-la-môn Verañja”. “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, Tôn giả Ānanda đáp lời. Rồi Đức Thế Tôn đắp y mang bát, có Tôn giả Ānanda theo sau, đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja; đến nơi, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Bà-la-môn Verañja đến gặp Đức Thế Tôn; đến nơi, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn nói với Bà-la-môn Verañja đang ngồi một bên: “Này Bà-la-môn, chúng tôi đã được ông thỉnh mời và đã an cư xong, nay xin từ biệt ông, chúng tôi muốn ra đi du hành các địa phương”. “Thật vậy, thưa Tôn giả Gotama, các ngài đã được tôi thỉnh mời và đã an cư; tuy nhiên những vật cúng dường chưa được dâng. Không phải vì không có, cũng không phải vì không muốn cúng dường, nhưng biết làm sao được khi việc nhà đa đoan, nhiều bổn phận. Xin Tôn giả Gotama nhận lời thọ trai ngày mai cùng với chúng Tỳ-kheo”. Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Đức Thế Tôn thuyết pháp chỉ dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Bà-la-môn Verañja, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Bà-la-môn Verañja, khi đêm đã qua, cho sửa soạn tại tư gia các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi cho báo thời giờ lên Đức Thế Tôn: “Thưa Tôn giả Gotama, đã đến giờ, cơm đã sẵn sàng”. | Then the Blessed One addressed Venerable Ananda, saying: “Ananda, it is customary for Tathagatas to inform their hosts before departing for a walking tour after spending the rainy season where they were invited. Come, Ananda, let us inform the brahmin Veranja.” “Yes, Lord,” Venerable Ananda replied. Then the Blessed One, having dressed and taking his bowl and robe, with Venerable Ananda as his attendant, went to the brahmin Veranja’s residence and sat down on the prepared seat. The brahmin Veranja approached the Blessed One, paid respects, and sat down to one side. The Blessed One then said to him: “Brahmin, we were invited by you and have spent the rainy season here. We inform you that we wish to depart for a walking tour.” “It is true, Master Gotama, that you were invited and have spent the rainy season here. However, the offerings that should have been given were not given. This was not due to their absence or unwillingness to give, but because household life involves many duties and responsibilities. May Master Gotama accept my invitation for tomorrow’s meal together with the community of monks.” The Blessed One accepted by remaining silent. Then the Blessed One, having instructed, inspired, roused, and delighted the brahmin Veranja with a Dhamma talk, rose from his seat and departed. Then the brahmin Veranja, as that night was ending, had excellent food prepared in his residence and had the time announced to the Blessed One: “It is time, Master Gotama, the meal is ready.” |
23. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verañjassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi saddhiṃ bhikkhusaṅghena. Atha kho verañjo brāhmaṇo buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappetvā sampavāretvā bhagavantaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ [oṇītapattapāṇiṃ (ka.)] ticīvarena acchādesi, ekamekañca bhikkhuṃ ekamekena dussayugena acchādesi. Atha kho bhagavā verañjaṃ brāhmaṇaṃ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi. Atha kho bhagavā verañjāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā anupagamma soreyyaṃ saṅkassaṃ kaṇṇakujjaṃ yena payāgapatiṭṭhānaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā payāgapatiṭṭhāne gaṅgaṃ nadiṃ uttaritvā yena bārāṇasī tadavasari. Atha kho bhagavā bārāṇasiyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā yena vesālī tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno yena vesālī tadavasari. Tatra sudaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyanti. | 23. Rồi Đức Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y mang bát đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja. Đến nơi, Ngài ngồi xuống chỗ đã được sắp đặt cùng với Tăng đoàn. Khi ấy, Bà-la-môn Verañja tự tay dâng cúng và làm cho thỏa mãn Đức Phật và chư Tăng với các món ăn thượng vị loại cứng và mềm. Sau khi Đức Thế Tôn đã thọ thực xong và đã rời tay khỏi bình bát, ông cúng dường Ngài ba y và mỗi vị tỳ khưu một cặp vải. Rồi Đức Thế Tôn thuyết pháp chỉ dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Bà-la-môn Verañja xong, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau khi ở tại Verañja theo như ý, Đức Thế Tôn không ghé qua Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja mà đi đến Payāgapatiṭṭhāna. Đến nơi, Ngài vượt qua sông Hằng tại Payāgapatiṭṭhāna và đi đến Bārāṇasī. Sau khi ở tại Bārāṇasī theo như ý, Ngài lên đường đi đến Vesālī. Theo tuần tự du hành, Ngài đã đến Vesālī. Tại đó, Đức Thế Tôn ngự tại Đại Lâm, trong giảng đường Kūṭāgāra. | Then the Blessed One, having dressed in the morning and taken his bowl and robe, went to the residence of the brahmin Verañja. Upon arrival, he sat down on the prepared seat with the community of monks. Then the brahmin Verañja, with his own hands, served and satisfied the community of monks headed by the Buddha with excellent food, both hard and soft. When the Blessed One had finished his meal and withdrawn his hand from the bowl, Verañja presented him with a set of three robes, and gave each monk a pair of cloths. Then the Blessed One, having instructed, urged, roused, and encouraged the brahmin Verañja with a Dhamma talk, rose from his seat and departed. After staying at Verañja as long as he wished, the Blessed One traveled to Payāgapatiṭṭhāna by way of Soreyya, Saṅkassa, and Kaṇṇakujja. Upon arrival, he crossed the River Ganges at Payāgapatiṭṭhāna and proceeded to Bārāṇasī. After staying at Bārāṇasī as long as he wished, he set out on tour toward Vesālī. Traveling by stages, he arrived at Vesālī, where he stayed at the Peaked Roof Hall in the Great Wood. |
Verañjabhāṇavāro niṭṭhito. | Phần Verañjabhāṇavāra đã kết thúc. | The Section on the Verañja Brahmin is Finished. |
Related posts:
Khám phá thêm từ DhammaViet.net
Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.